Category Archives: Health

[Tedxhanoi] Làm sao để trò giỏi hơn thầy – GS Nguyễn Lân Dũng

[Tedxhanoi] Làm sao để trò giỏi hơn thầy – GS Nguyễn Lân Dũng

Tiếng rên xiết những linh hồn rẻ mạt
những đường cong ai chẳng có trên người
có thể khác nhau nhưng bộ óc
chỉ khác khi con người không ý nghĩ

tôi đau đớn và khóc ròng muốn chết
vì khi đó tôi không biết làm sao
để yêu em hôn em như những gì em muốn
nhục cảm biểu hiện đó em chấp nhận rằng

anh mới biết yêu em rồi đó
nhưng khi đó em à
những lúc ôm hôn
đầu óc ta đã chết, nhưng nếu là chết thật

anh sẽ yêu em…

Xuân Thủy 10.10.2013

Johns Hopkins Hospital – Medical school

Hoa Tran

Dẫu không bao giờ nước mình có được một cơ sở bệnh viện day học như Johns Hopkins Hospital – Medical school thế này nhưng xem cho biết cũng ko hại gì. Nhìn những hình ảnh bề nổi ở đây chỉ hơn một nửa của toàn cơ sở này mà thôi, có nghĩa còn một số khoa và trung tâm nghiên cứu của họ là âm dưới lòng đất. điều đơn giản là không đủ diện tích xây dựng. Nhưng họ vẫn có ý thức để không gian tạo cho môi trường sống cân bằng sinh học và cả tính mỹ học nữa. Thiết nghĩ xã hội có trật tự về quy hoạch xây dựng là vô cùng cần.  Lịch sử phát triển của JH đã cập kề 130 năm. thoạt đầu chỉ là một phòng khám đa khoa do 2 BS và mấy bà xơ phụ trách. ban nào quan tâm tới nhờ đâu mà họ trở thành cơ sở y khoa số một của Mỹ thì vào website của họ mà đọc. Tôi đã có dịp đi tham quan tất tần tật các khoa phòng và trung tâm/viện nghiên cửu ở đây.

Dẫu không bao giờ nước mình có được một cơ sở bệnh viện day học như Johns Hopkins Hospital - Medical school  thế này nhưng xem cho biết cũng ko hại gì. Nhìn những hình ảnh bề nổi ở đây chỉ hơn một nửa của toàn cơ sở này mà thôi, có nghĩa còn một số khoa và trung tâm nghiên cứu của họ là âm dưới lòng đất. điều đơn giản là không đủ diện tích xây dựng. Nhưng họ vẫn có ý thức để không gian tạo cho môi trường sống cân bằng sinh học và cả tính mỹ học nữa. Thiết nghĩ xã hội có trật tự về quy hoạch xây dựng là vô cùng cần.<br /><br />
Lịch sử phát triển của JH đã cập kề 130 năm. thoạt đầu chỉ là một phòng khám đa khoa do 2 BS và mấy bà xơ phụ trách. ban nào quan tâm tới nhờ đâu mà họ trở thành cơ sở y khoa số một của Mỹ thì vào website của họ mà đọc. Tôi đã có dịp đi tham quan tất tần tật các khoa phòng và trung tâm/viện nghiên cửu ở đây.

cho sự nghiệp Từ bi – Trí tuệ – và Hòa bình

Harvard vinh danh Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

cho sự nghiệp Từ bi – Trí tuệ – và Hòa bình

Lê Nguyên tổng hợp
 
***
Trong khuôn khổ của chương trình Giáo dục thường xuyên thuộc ngành y (Continuing Medical Education) của Viện đại học Harvard. Được tổ chức bởi Trường đại học Y khoa Harvard (Harvard Medical School) mà đứng đầu là các Giáo sư danh tiếng như: Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel vào các ngày 11 và 12 tháng Chín 2013 tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, với một ban Giảng huấn hùng hậu gồm 14 vị Giáo sư đứng đầu là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sau đó mới tới các vị Giáo sư danh giá như: Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh.
Học viên là các Bác sĩ y khoa, các nhà Tâm lý học, Giáo chức, Nhà văn, Tác giả, Khảo cứu gia, v.v… Mỗi học viên là Bác sĩ y khoa phải chi trả tới 475 đô-la Mỹ cho khóa học chỉ có 2 ngày, thành phần còn lại được hưởng giá đặc biệt hơn nhưng cũng gần 400 Mỹ kim cho một người. Vậy mà con số ghi danh tham dự lên đến hơn 1100 người, và đó cũng là lý do chính để Ban tổ chức chọn thính đường lớn nhất của Boston Park Plaza Hotel làm nơi thuyết giảng.
 
Thíền tọa trong công viên sau một cuộc thiền hành
Chủ đề của khóa học là Thiền Tập và Tâm Lý Trị Liệu (Meditation and Psychotherapy) thế nên Chương trình đã dành trọn một ngày cho vị Thiền sư người Việt và tăng đoàn Làng Mai thuyết giảng và hướng dẫn thiền tập trong một khóa học chỉ có 2 ngày. Trong khi cả một ban giảng huấn có tới 13 vị Giáo sư danh giá của Harvard mà chỉ có một ngày để chia nhau thuyết trình cho thấy nhu yếu thiền tập đời sống tỉnh thức của đạo Bụt qua pháp môn của Làng Mai đã trở thành bộ môn quan trọng dường nào của giới Khoa học, và Giáo dục của Viện đại học Harvard nói riêng và mọi ngành, mọi giới nói chung như chúng ta vừa mới chứng kiến Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng đoàn Làng Mai hướng dẫn cho tập đoàn lãnh đạo cùng nhân viên của World Bank tại Tổng hành dinh Trung ương ở Washington DC đồng thời truyền chân cho tất cả các chi nhánh có mặt trên 168 quốc gia.
 

Sự nghiệp từ bi, trí tuệ và hòa bình

Trước giờ Thiền Sư thuyết giảng, Giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa Sức khỏe Cộng đồng của Đại Học Harvard đã long trọng giới thiệu Thiền sư Thích Nhất Hạnh trước một cử tọa hàng ngàn người toàn là khoa bảng thượng thặng, những người con ưu tú của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Tiếp theo Giáo sư Julio Frenk – đại diện trường Đại Học Y Khoa Harvard và tổ chức Cambridge Health Alliance đã trân trọng trao tặng Thiền Sư tấm biển đồng Danh dự, công nhận Thiền Sư là một người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình (to the most Venerable Thich Nhat Hanh for your pioneering and tireless efforts in cultivating compassion, wisdom and peace). Tấm biển đồng được ký tên bởi hai vị: Giáo sư Caroline Shields Walker, Trưởng khoa Y (Faculty of Medicine), và Giáo sư Jack D. Burke, Trưởng khoa Tâm Lý Trị Liệu của trường Đại Học Y Harvard.
Biểu đồng danh dự Caroline và Jack D tặng.JPG
Đáp lại nghĩa cử cao quý và chân thành của Ban tổ chức, Thiền sư Thích Nhất Hạnh khiêm cung phát biểu, xin trích:“Cảm ơn sự tin tưởng và thương yêu của quý vị. Chúng tôi, tăng thân Làng Mai, luôn luôn học hỏi, thực tập và phụng sự như một đoàn thể, một cộng đồng, một tăng thân, nên sự tin tưởng, niềm thương yêu và vinh dự này là dành cho tất cả mọi thành phần của tăng thân, trong đó có hàng trăm vị đang ngồi trong thính chúng.”
 
Giáo sư Julio Frenk trao tặng Thiền Sư bảng đồng Danh Dự
Cùng ngày, Giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa Đại học Y tế Công cộng Harvard (Harvard School of Public Health) cũng đã trao tặng Thiền sư Thích Nhất Hạnh Chứng thư công nhận Thiền Sư là Nhà Lãnh Đạo Toàn Cầu cho Phong Trào vì Hòa Bình, Nhân Quyền và Sức Khỏe Cộng Đồng (Harvard School of Public Health hereby recognizes Zen Master Thich Nhat Hanh as a global leader for peace, human rights, and health). Chứng thư có nội dung như sau: “Trường Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về những lời dạy và pháp môn thực tập của Thiền Sư nhằm thúc đẩy một hướng đi chánh niệm phục vụ cho sức khỏe và hạnh phúc của cộng đồng; cũng như về những đóng góp nhiều mặt của Thiền Sư với tư cách một học giả và một nhà hoạt động vì hòa bình cho thế giới.”
 
Chứng thư do giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa của Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard trao tặng
Đặc biệt, không biết duyên cớ gì mà có một ký giả phải đổi đường bay tới hơn hàng chục ngàn cây số từ Hà Nội qua Washington DC, đến Boston, v.v… âm thầm đi theo bước chân của vị Thầy tâm linh cùng huyết thống để ghi chép, đưa tin chia sẻ tuệ giác của Thiền sư Thích Nhất Hạnh với đồng bào quê nhà.Phải chăng đây là một trong những ứng hiện của quy luật bù trừ trước những thiệt thòi của giống nòi Việt liên tục xảy ra từ trong chiến tranh cho chí hàng chục năm sau của hòa bình!
Và đây là một trong những bài đầu tiên của Ký giả H. A. S. đã gửi về cho Đài tiếng nói Việt Nam ở Hà Nội và được phát thanh trên làn sóng cũng như đăng trên trang web của Đài. Chúng tôi xin chép lại như dưới đây.
Lê Nguyên tổng hợp.
 

Đi học “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” giữa lòng nước Mỹ

Thứ Hai, 16/09/2013 10:53
Radiovietnam- Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có những chia sẻ ý nghĩa trong buổi nói chuyện có chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12/9 vừa qua.
Làm thế nào để chế ngự được những âu lo, sợ hãi? Bằng cách nào để chuyển hóa được những nỗi khổ, niềm đau? Con đường nào đưa ta đến cuộc sống thảnh thơi, an lạc, ngập tràn hạnh phúc và tình yêu thương? Chỉ có một con đường duy nhất, đó là nghệ thuật chánh niệm, là ý thức hơi thở, là nghệ thuật lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ ái ngữ…
Với thiền sư Thích Nhất Hạnh, đó chính là những phương pháp chánh niệm có công năng trị liệu đặc biệt, mang lại cho chúng ta tuệ giác và tình yêu thương đối với chính bản thân mình và đối với mọi người, mọi loài mà thiền sư đã chia sẻ trong buổi nói chuyện về chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12 tháng 9 vừa qua…
Ý thức hơi thở
Hạnh phúc hiện ra ngay bây giờ và ở đây.
 
Buổi nói chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh do trường Đại học danh tiếng hàng đầu nước Mỹ Harvard tổ chức tại tiền sảnh của Khách sạn Boston Park Plaza đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ, trong đó, phần lớn là giới trí thức, thượng lưu, doanh nhân, chính trị gia, trong đó, có cả gia đình cố Tổng thống Mỹ John F.Kennedy.
1.200 vé đã bán hết vèo trong vòng 3 ngày với giá cao ngất ngưởng: 450 đô-la/vé đã chứng tỏ sức hút đặc biệt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Song điều đó cũng cho thấy phần nào tảng băng chìm trong đời sống tâm linh nước Mỹ.
Dường như người Mỹ cũng đang phải đối diện với những khổ đau, những căng thẳng, âu lo và sợ hãi. Dường như chính họ cũng đang bế tắc trong việc truy tìm bến bờ của hạnh phúc, của an lạc.
Một bác sĩ tâm lý trị liệu tham dự buổi nói chuyện tâm sự với tôi:“Tôi đã tư vấn, trị liệu thành công cho hàng ngàn bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm, u uất, đau khổ. Nhưng chính tôi nhiều lúc cũng bị căng thẳng, lo sợ, hoang mang. Tôi đến đây là để nghe một trong những vị thiền sư danh tiếng nhất thế giới nói về phương pháp chánh niệm để vận dụng trong công việc tâm lý trị liệu. Song trước tiên, tôi muốn trị liệu tâm lý cho chính tôi”.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh ngồi an nhiên trong tư thế kiết già trên bục giảng sân khấu. Khuôn mặt thầy bình thản, đôi mắt sáng, tinh anh, giọng thầy nhỏ nhẹ, đều đều như hơi thở. Thầy bắt đầu câu chuyện bằng việc theo dõi hơi thở.
Mọi người ở dưới ồ lên. “Tưởng thiền là điều gì khó khăn ghê gớm chứ theo dõi hơi thở của mình thì đơn giản quá”. Thầy mỉm cười. Cái cười độ lượng, nhân từ. “Ta thở vào và theo sát hơi thở xuống dưới bụng. Trong khi thở, ta nhủ thầm “Con đã về”. Rồi ta theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối trọn vẹn, thỏa mái, đồng thời nhủ thầm “Con đã tới”. Chỉ bằng một động thái đơn giản như thế, tâm ta lập tức sẽ trở về với thân, tiếp xúc với một sự thật màu nhiệm tuyệt vời là ta đang còn sống trong giây phút hiện tại và đây là giây phút hạnh phúc”. Thiền sư Thích Nhất Hạnh gọi đó là hơi thở có ý thức, hơi thở chánh niệm.
Mọi người ở dưới chậm rãi thực hành theo. Thân thể thả lỏng, mắt từ từ nhắm lại. Chậm rãi theo dõi hơi thở. Thở vào: “con đã về”. Thở ra: “con đã tới”. Và ngay lập tức, dường như mọi người đã nhanh chóng thoát ra khỏi những lo toan, ồn áo huyên náo trong đầu, và bước vào một trạng thái thức tỉnh khác lạ. Khuôn mặt ai cũng trở nên thư thái. Có lẽ, họ đã hiểu, thế nào là giây phút hiện tại.
Thiền sư giảng giải:“Chúng ta thường bị mắc kẹt trong những ưu sầu vì nuối tiếc quá khứ và lo lắng, sợ hãi cho tương lai. Chúng ta cho rằng hạnh phúc chưa thể có trong hiện tại và chúng ta cần phải có nhiều điều kiện hơn nữa mới thực sự có hạnh phúc. Đó chính là lý do khiến chúng ta khổ. Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, tất cả những gì chúng ta đang cần tìm đều có mặt trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta biết thực tập hơi thở ý thức và định tâm thì chúng ta có thể đi ra khỏi những khổ đau này và chạm tay vào những màu nhiệm của sự sống ngay trong giây phút này. Quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới, chỉ có duy nhất giây phút mà ta có thể thực sự sống. Đó là giây phút hiện tại.
Trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt đã chỉ dạy cho chúng ta những bài tập cụ thể để tạo dựng niềm vui, hạnh phúc, an lạc. Đó là một giáo pháp rất rõ ràng và sâu sắc. Nếu chúng ta biết cách tạo ra năng lượng niệm và định thì chúng ta có thể tiếp xúc với vô vàn hạnh phúc đang có mặt với ta ở đây, ngay bây giờ.
Chẳng hạn như chúng ta tiếp xúc với hai mắt. “Tôi đang thở vào và ý thức về hai mắt của tôi. Tôi đang thở ra và mỉm cười với hai mắt của tôi”. Khi ta thực tập như vậy thì tuệ giác sẽ nảy sinh. Chỉ trong hai, ba giây là ta có thể nhận thấy rằng: đôi mắt của mình vẫn còn sáng. Một thiên đường của màu sắc, hình ảnh đang hiện ra trước mặt. Đối với những người bị khiếm thị, thiên đường ấy, chưa một lần họ nhìn thấy. Vì vậy mà đôi mắt là một trong những điều kiện căn bản để có hạnh phúc. Ta chỉ cần thở vào thể thắp sáng ý thức rằng, mình đang có một đôi mắt sáng.
Buổi nói chuyện đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ.
Ta cũng có thể thực tập tiếp xúc với trái tim mình: “Tôi đang thở vào và ý thức về trái tim của tôi. Tôi đang thở ra và tiếp xúc với trái tim của tôi”. Khi chúng ta sử dụng năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ khám phá ra rằng: trái tim mình đang đập bình thường trong khi biết bao người bị hở van tim, rối loạn động mạch vành. Họ có thể bị đột quỵ bất cứ lúc nào. Nếu ta cứ tiếp tục thực tập như vậy thì ta sẽ tiếp xúc được với vô vàn hạnh phúc đang có mặt trong ta, quanh ta.Đó là tập chánh niệm, nghĩa là đem tâm trở về với thân và an trú trong giây phút hiện tại.
Nếu mình hoàn toàn có mặt trong giây phút này, mình có thể nhìn sâu hơn để bước một bước chân ý thức trên hành tinh đẹp đẽ này hay thở vào một hơi để ý thức là ta đang sống trong cõi niết bàn, tịnh độ.Và khi ta ở trong cõi thiên đàng thanh tịnh đó rồi thì ta đâu cần phải mệt nhọc chạy theo những danh tiếng, tiền tài, địa vị hay những dục lạc khác. Bình an, niềm vui, hạnh phúc có thể đạt tới ngay. Và sự thực tập này đủ đơn giản cho tất cả mọi người”.
Không có bùn, không có sen và nghệ thuật chuyển hóa khổ đau
 
Sảnh khách sạn đông nghẹt người mà im phăng phắc. Có thể nghe thấy tiếng thở chánh niệm đều đều của những người ngồi kề bên. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh vẫn thuyết pháp với giọng điệu nhẹ nhàng, thong dong.
Những lời giảng của ngài như những giọt sương trong vắt cứ nhẹ nhàng rơi, nhẹ nhàng thấm từng giọt, từng giọt vào những tâm hồn cằn khô vì lo toan, phiền muộn, sầu khổ. “Ai trong chúng ta cũng chẳng có ít nhiều khổ đau. Nhiều người thường sợ phải đối diện và chìm đắm trong biển khổ đau của mình nên tìm mọi cách trốn chạy. Đọc sách báo, xem ti vi, uống rượu, hút thuốc phiện… hoặc vùi đầu trong công việc chồng chất.
Chúng ta không biết làm cách nào để đối diện và chuyển hóa những khổ đau ấy. Chính vì điều này mà trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt khuyên chúng ta trở về và nhận diện những khổ đau trong ta.
Nếu chúng ta biết cách thực tập hơi thở có ý thức, thực tập đi chánh niệm, lái xe chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta sẽ đủ mạnh để giúp ta trở về, ôm ấp, vuốt ve những lo lắng, sợ hãi, buồn khổ trong lòng và chỉ vài phút sau, những niềm đau, nỗi khổ sẽ vơi đi nhiều. Giống như một bà mẹ bỗng nghe tiếng con khóc. Bà sẽ chạy đến, ôm đứa con vào lòng với tất cả sự trìu mến. Bà mẹ chưa biết chuyện gì xảy ra với đứa bé nhưng cử chỉ yêu thương ấy sẽ làm cho nó hết khóc, hết khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng vậy. Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ trong ta nhưng nếu ta ôm lấy niềm đau ấy một cách dịu dàng với năng lượng chánh niệm, ta có thể làm dịu đi nhanh chóng cơn đau nhức ấy.
Trong Kinh về Bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ Diệu Đế), Bụt đã chỉ cho ra cho ta sự thật thứ nhất là khổ. Sự thật thứ hai là bản chất của khổ. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe sâu những khổ đau trong chính mình và nhìn sâu vào bên trong với năng lượng của chánh niệm và chánh định thì chúng ta sẽ hiểu được những gốc rễ đưa tới khổ đau đó và thoát khỏi nó. Cái hiểu sẽ làm phát khởi tình thương ngay trong trái tim ta.
Nếu ai đó hỏi tôi rằng: “Làm thế nào để chế tác tình thương yêu?”. Tôi sẽ nói rằng:Chỉ có một cách duy nhất là hãy nhìn sâu vào niềm đau, nỗi khổ của chính mình và tìm cách hiểu chúng. Nếu không, ta không thể hiểu được những khổ đau của người khác và không thể thương yêu ai được”.
Trong các phương pháp tu tập mà Bụt chỉ dạy, có một phương pháp gọi là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái. Lắng nghe với tâm từ bi có thể giúp nối lại sự truyền thông.
Nhiều người trong chúng ta luôn tìm cách trốn chạy khỏi chính mình, bởi vì chúng ta không biết cách lắng nghe nỗi khổ của chính mình.Khi chúng ta bắt đầu hiểu được niềm đau của chính mình thì chúng ta có thể truyền thông được với chính mình dễ dàng hơn, nhờ đó, chúng ta sẽ dễ dàng truyền thông với người khác.
Ta có thể nói với người vợ đang khổ đau của ta rằng: “Em ơi! Anh biết em đã chịu nhiều đau khổ. Vậy mà, nhiều năm qua, anh đã làm những điều không phải khiến em khổ thêm bởi anh đã không hiểu được những khổ đau của chính anh và cả của em nữa. Hãy giúp anh em nhé! Hãy nói cho anh biết tất cả những khó khăn của em. Ạnh không muốn tiếp tục phạm phải những sai lầm trước đây và làm cho em khổ thêm nữa”. Nếu mình có thể nói với người thương của mình bằng ngôn ngữ như vậy thì người đó có cơ hội mở lòng mình ra. Khi đó ta có thể áp dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Người thương của ta sẽ bớt khổ liền.
 Khi ta đau khổ, ta có xu hướng nghĩ rằng khổ đau của ta là do một người khác gây ra. Chúng ta muốn trừng phạt người đó bởi vì họ đã làm cho ta khổ. Nhưng khi chúng ta thực tập hơi thở có ý thức và nhìn sâu vào nỗi khổ, niềm đau của người đó thì ta sẽ thấy rằng người đó cũng chỉ là nạn nhân của chính khổ đau trong lòng họ nên họ cần được giúp đỡ chứ không đáng bị trừng phạt.
Hoa sen không thể mọc và tỏa hương nếu không có bùn. Hạnh phúc và khổ đau cũng vậy, chúng nương vào nhau. Chúng ta không thể thấy được hạnh phúc ngọt ngào nếu như chưa nếm trải vị cay đắng của khổ đau. Nếu ta chưa bao giờ bị đói, ta sẽ không biết trân quý món ăn. Nếu ta chưa bao giờ thấy chiến tranh, ta sẽ không thấy được giá trị của hòa bình. Nếu chúng ta biết áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày thì chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Năng lượng chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc nhưng năng lượng đó không thể mua được trong siêu thị mà chỉ có thể do chính bản thân ta tự chế tác ra”.
Hơn ngàn quan khách đồng loạt đứng dậy vỗ tay tán thưởng. Khuôn mặt ai cũng ngời lên niềm xúc động, hạnh phúc, hoan hỉ. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh nở nụ cười rạng rỡ.
Ngài giơ đôi bàn tay lên vẫy vẫy – cách tán thưởng của ngài, trông đôi tay như hoa nở. Cả ngàn người bên dưới cũng giơ tay lên vẫy theo trông như một rừng hoa. Rồi ngài chậm rãi bước xuống, hướng dẫn mọi người đi bộ trong chánh niệm. Ngài đi trước, bước từng bước chậm rãi, thảnh thơi. Hàng ngàn người thong thả bước theo. Họ đi trong im lặng. Mỗi bước chân là một niệm cho an lạc, hòa bình, hạnh phúc, thương yêu.
Những bước đi thong dong, an nhiên như sen nở đưa dòng người chảy ra đường, hướng đến công viên Boston. Xe ô tô đang rầm rập chạy trên đường bỗng dừng lại. Những hành khách đang hối hả sải bước trên hè cũng dừng lại, nhường đường cho dòng người thiền hành trong im lặng chuyên chở biết bao năng lượng yên bình, hạnh phúc…

Riêng Tư: UBS l ĐTX

Đây là nội dung riêng tư. Cần phải nhập mật khẩu để xem tiếp:

10 nguyên tắc vàng của WHO về An toàn Vệ sinh Thực phẩm

10 nguyên tắc vàng của WHO về An toàn Vệ sinh Thực phẩm
Thứ hai, ngày 6 tháng 5 năm 2013

Nguyên tắc 1

Chọn thực phẩm an toàn. Chọn thực phẩm tươi. rau, quả ăn sống phải được ngâm và rửa kỹ bằng nước sạch. Quả nên gọt vỏ trước khi ăn. Thực phẩm đông lạnh để tan đá, rồi làm đông đá lại là kém an toàn.

10 Nguyên tắc vàng của WHO về an toàn vệ sinh thực phẩm

Nguyên tắc 2

Nấu chín kỹ thức ăn. Nấu chín kỹ hoàn toàn thức ăn, là bảo đảm nhiệt độ trung tâm thực phẩm phải đạt tới trên 700C.

Nguyên tắc 3

Ăn ngay sau khi nấu. Hãy ăn ngay sau khi vừa nấu xong, vì thức ăn càng để lâu thì càng nguy hiểm.

Nguyên tắc 4

Bảo quản cẩn thận các thức ăn đã nấu chính. Muốn giữ thức ăn quá 5 tiếng đồng hồ, cần phải giữ liên tục nóng trên 600C hoặc lạnh dưới 100C. Thức ăn cho trẻ nhỏ không nên dùng lại.

Nguyên tắc 5

Nấu lại thức ăn thật kỹ. Các thức ăn chín dùng lại sau 5 tiếng, nhất thiết phải được đun kỹ lại.

Nguyên tắc 6

Tránh ô nhiễm chéo giữa thức ăn chín và sống, với bề mặt bẩn. Thức ăn đã được nấu chính có thể bị nhiễm mầm bệnh do tiếp xúc trực tiếp với thức ăn sống hoặc gián tiếp với các bề mặt bẩn (như dùng chung dao, thớt để chế biến thực phẩm sống và chín).

Nguyên tắc 7

Rửa tay sạch trước khi chế biến thức ăn và sau mỗi lần gián đoạn để làm việc khác. Nếu bạn bị nhiễm trùng ở bàn tay, hãy băng kỹ và kín vết thương nhiễm trùng đó trước khi chế biến thức ăn.

Nguyên tắc 8

Giữ sạch các bề mặt chế biến thức ăn. Do thức ăn dễ bị nhiễm khuẩn, bất kỳ bề mặt nào dùng để chế biến thức ăn cũng phải được giữ sạch. Khăn lau bát đĩa cần phải được luộc nước sôi và thay thường xuyên trước khi sử dụng lại.

Nguyên tắc 9

Che đậy thực phẩm để tránh côn trùng và các động vật khác. Che đậy giữ thực phẩm trong hộp kín, chạn, tủ kính, lồng bàn… Đó là cách bảo vệ tốt nhất. Khăn đã dùng che đậy thức ăn chín phải được giặt sạch lại.

Nguyên tắc 10

Sử dụng nguồn nước sạch an toàn. Nước sạch là nước không màu, mùi, vị lạ và không chứa mầm bệnh. hãy đun sôi trước khi làm đá uống. Đặc biệt cẩm thận với nguồn nước dùng nấu thức ăn cho trẻ nhỏ.

KHẢO SÁT HÀM LƯỢNG FLUOR TRONG KEM ĐÁNH RĂNG

 Có một loại kem đánh răng đảm bảo chất lượng quốc tế, không chứa chất tẩy trắng, tiết kiệm túi tiền chỉ với 135.000 VNĐ/200gr sử dụng trong vòng 9 – 12 tháng, tái tạo lại men răng tự nhiên và không tạo mảng bám vôi răng , hàm lượng fluor và muối vừa đủ – đến từ USA 

Nhà phân phối Mr.Trần Trung Hiếu

T. 098 3783 092

Đặng Thị Kề, Ngô Đồng Khanh
Tạp chí Y học Tp. Hồ Chí Minh năm 2009 Tập 13 số 2
TÓM TẮT :

Mục tiêu: Khảo sát hàm lượng fluor trong kem đánh răng băng phương phân tích điện cực chọn lọc ion nhằm cung cấp những thông tin hữu ích giúp người tiêu dùng lựa chọn những sản phẩm kem đánh răng có chất lượng trên thị trường, đồng thời giúp các công ty định hướng sản xuất những sản phẩm kem đánh răng chuẩn không độc hại cho người tiêu dùng.
Phương pháp nghiên cứu: 36 thương phẩm kem đánh răng được chọn ngẫu nhiên để khảo sát gồm: 13 thương phẩm từ các công ty sản xuất trong nước, 13 thương phẩm từ các công ty sản xuất trong nước và 13 thương phẩm ngoại nhập được bán trên thị trường Việt Nam. Mẫu khảo sát được tiến hành phân tích tại 2 nơi: Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm và Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Hàm lượng fluor trong kem đánh răng được so sánh ở 2 nơi phân tích không khác nhau. Tuy nhiên, hàm lượng fluor trong kem đánh răng được bán trên thị trường và tại công ty sản xuất có sự khác nhau. Đối với kem đánh răng sản xuất trong nước: kem người lớn dưới 50% không đạt hàm lượng chuẩn, kem trẻ em 100% không đạt hàm lượng chuẩn, 53,85% thương phẩm có hàm lượng fluor khảo sát khác với hàm lượng fluor ghi trên bao bì ở mức ≥ 100 ppm. Riêng đối với kem đánh răng ngoại nhập: 88,89% không đạt hàm lượng chuẩn, 40% thương phẩm có hàm lượng fluor khảo sát khác với hàm lượng fluor ghi trên bao bì ở mức ≥ 100 ppm.
Kết luận: Những kết quả này sẽ rất hữu ích cho việc sản xuất, nhập khẩu kem đánh răng có chất lượng; ngành Răng Hàm Mặt Việt Nam thiết lập chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng phù hợp và có hiệu quả.
ABSTRACT :

Objective: To test fluoride content in toothpaste by Ion selective electrode method, is to supply the information to help consumers choose high-quality toothpaste in market; simultaneously help companies plan to manufacture standard products of harmless toothpaste to consumers.
Methods: 36 commercial products of toothpaste were chosen to test at random including: 13 domestic products, 13 imported products. Patterns to test were carried out in two positions Biochemistry Center and Institute of Odonto-Stomatology in HCM city.
Results: Fluoride concentration in toothpaste was compared indifferently. However the content fluoride in toothpaste sold in market is different from the one at production places. For the domestic toothpaste for adult, the content fluoride is less 50% than the standard. 100% for children doesn’t attein the standard, The fluoride content in 53.85% of commercial products which was tested is different from the fluoride content was written on pack; it’s equal or less than 100 ppm. For imported toothpaste, 88.89% doesn’t attein the standard; 40% of commercial products which was tested is different from the fluoride content was written on pack; it’s equal or less than 100 ppm.
Conclusion: This result is valuable and useful to the dental profession in Vietnam so that they can set up the preventive programme as same as studies later.
Toàn văn HTML |  Toàn văn PDF

ĐẶT VẤN ĐỀ

Với vai trò phòng ngừa bệnh sâu răng và nha chu, fluor được nghiên cứu và đưa vào ứng dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe răng miệng cách đây 100 năm dưới nhiều hình thức: nước uống có fluor, muối có fluor, kem đánh răng có fluor, nước súc miệng có fluor, vật liệu trám phóng thích fluor…..(16,17,21).  Trong đó, kem đánh răng có fluor được xem là dạng thích hợp nhất để đưa chất fluor đến với cá nhân và cộng đồng trong các chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng ở các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển(11,14,17,20,21).

Ở Việt Nam, theo điều tra cơ bản sức khỏe răng miệng quốc gia (2000), tỷ lệ bệnh sâu răng ở trẻ em trong độ tuổi đi học 93,7%. Số trung bình răng sâu mất trám ở hệ răng sửa là

(1,19)

6,34, Sâu Mất Trám ở hệ răng vĩnh viễn 2,94

. Tỷ lệ này hiện vẫn còn cao, mặc dù trong

nhiều năm qua, ngành Răng Hàm Mặt Việt Nam đã thực hiện nhiều chương trình can thiệp cộng đồng như: chương trình nha học đường, chương trình fluor hóa nước máy ở một số tỉnh, thành phố. Song đối với những vùng nông thôn sâu, nơi có tỷ lệ bệnh sâu răng cao và những nơi không thể thực hiện được fluor hóa nước máy thì kem đánh răng chứa fluor

2,19)

được xem là dạng thích hợp và hiệu quả nhất để phòng ngừa sâu răng( .

Fluor trong kem đánh răng là dạng fluor có tác dụng tại chỗ, nếu được sử dụng đúng lượng, đủ liều và đều đặn hàng ngày thì fluor có khả năng ngấm vào lớp men răng làm cho men răng cứng chắc hơn, giúp men răng ít bị hòa tan bởi acid trong môi trường miệng và đề kháng lại sâu răng. Ngược lại, nếu sử dụng quá liều thì lâu ngày sẽ dẫn tới răng bị nhiễm fluor làm ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ của răng (10,12,13,21). Nói cách khác, hiệu quả phòng ngừa sâu răng sẽ tùy thuộc chủ yếu vào hàm lượng fluor được bổ sung vào trong kem đánh răng và hàm lượng này phải đạt chuẩn cho phép.

Mặt khác, trên thị trường nước ta hiện nay, lượng kem đánh răng khá nhiều, đủ các chủng loại, đủ nguồn gốc: sản xuất trong nước, hàng ngoại nhập, hàng quà biếu…..Vì vậy, sẽ không tránh khỏi tình trạng sản phẩm không đạt hàm lượng fluor theo tiêu chuẩn cho phép, bởi vì các sản phẩm kem đánh răng ghi nhãn có chứa fluor nhưng trên thực tế ít có sự kiểm chứng nào của ngành chức năng đối với loại hình này. Hơn nữa, từ năm 2000 theo qui định hiện hành thì các đơn vị sản xuất kem đánh răng chỉ cần tự công bố chất lượng với Tổng cục đo lường – Chất lượng là được. Như thế có thể nói một lĩnh vực có ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe con người đang gần như bị buông lỏng về mặt quản lý chất lượng và định lượng fluor trong kem đánh răng rất cần thiết cho việc giám sát chất lượng chuẩn của kem đánh răng hiện nay.

ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU

Đối tượng nghiên cứu

Mẫu chuẩn: NaF trong nước tương đương 1000 µg F/ ml – Merck

Mẫu thử: Cỡ mẫu phân tích gồm 154 mẫu được chọn ngẫu nhiên từ nơi sản xuất và thị trường. Cách lấy mẫu như sau: mỗi thương phẩm chọn 3 lô và trong mỗi lô lấy 2 tuýp. Riêng đối với kem ngoại nhập trên thị trường, mỗi thương phẩm chọn 1 lô và trong lô ấy lấy 2 tuýp.

Kí hiệu mẫu (15,18)

Mẫu sau khi lấy về, mỗi thương phẩm được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm: nhóm phân

tích tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh (BVRHMTƯ TPHCM) và nhóm phân tích tại Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh (TTDVPTTN TPHCM). Mỗi tuýp kem sẽ được sơn đen phủ kín bên ngoài và ghi kí hiệu theo cách sau:

_ Nhóm phân tích tại BVRHMTƯ TPHCM
AnjX n = 1, 2, …….., 13 j = 1, 2, 3
BmjX m = 1, 2, ……., 23 j = 1, 2, 3
_ Nhóm phân tích tại TTDVPTTN TPHCM
AnjY n = 1, 2, …….., 13 j = 1, 2, 3
BmjY m = 1, 2, …….., 23 j = 1, 2, 3
Trong đó:
A   Mẫu từ công tyj          Số thứ tự của lô

B    Mẫu từ thị trường       X          Mẫu phân tích tại BVRHMTƯ TPHCM

n    Số thứ tự tên mẫu từ công ty   Y        Mẫu phân tích tại TTDVPTTN TPHCM

m   Số thứ tự tên mẫu từ thị trường

Chọn mẫu

Mẫu sau khi được  ghi kí hiệu  theo nhóm  được mang đi phân  tích ở TTDVPTTN TPHCM (77 mẫu) và BVRHMTƯ TPHCM (36 mẫu).

Phương tiện nghiên cứu

Natri citrat, natri acetat, natri clorid, natri hydroxyd, acid hydrochloric, acid acetic băng – Merck. Máy đo pH/ Ion meter 450 (CORNING -Mỹ), máy đo pH/ Ion meter 710A (ORION -Mỹ), điện cực kép fluor (CORNING)  mã số 476135 và một số trang thiết bị khác dùng trong phòng thí nghiệm.

Phương pháp nghiên cứu

Khảo sát phương pháp phân tích điện cực chọn lọc ion (5,9) Gồm 2 giai đoạn chủ yếu là xây dựng đường chuẩn và xác định ion fluor cần tìm trong mẫu thử

Thẩm định phương pháp phân tích (3,4,5) Các chỉ tiêu được đánh giá bao gồm: độ chính xác, độ đúng, khoảng tuyến tính, giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng.

Ứng dụng phương pháp phân tích điện cực chọn lọc ion để định lượng một số kem đánh răng chứa fluor hiện có trên thị trường Việt Nam

Thu thập dữ liệu:(3,4,8)

Kết quả phân tích sau khi ghi nhận được mã hóa và nhập số liệu để tính toán

Phân tích dữ liệu:(3,4,8,18)

Dữ liệu được nhập bằng phần mềm MS-Excel 2003. Sau đó, dùng thống kê mô tả và thống kê suy lý để phân tích dữ liệu.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Khảo sát phương pháp định lượng fluor

70

60                         Y = -59,167X + 60,831

50                                 R2 = 0,9995

40

30

20

10

0

0        0,2       0,4       0,6       0,8        1

Noàng ñoä (lgF)

Xây dựng ñường chuẩn

Biểu đồ 1: Tương quan giữa nồng độ và thế của fluor

Kết quả thẩm định

Độ chính xác

Khảo sát trên mẫu B23X 6 lần, ta có kết quả các giá trị như sau:

X = 985,64 SD= 12,15 RSD%= 1,23%. Kết quả này cho thấy phương pháp đạt yêu cầu về độ lặp lại.

Khoảng tuyến tính

60                         Y = -59,588X + 60,591

50                                 R2 = 0,9991

40

30

20

10

0

0        0,2       0,4       0,6       0,8        1

Noàng ñoä (lgF)

Biểu đồ 2: Tương quan giữa nồng độ và thế của fluor

Kết quả xử lý thống kê cho thấy phương trình hồi qui tương thích và các hệ số hồi qui có ý nghĩa hay phương trình hồi qui có dạng Y = -59,588X + 60,591. (F = 8616,45 > F0,05  = 5,318, t0

= 130,699 > t0,05 = 2,365, t = 92,824 > t0,05 = 2,365)

Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng

Đo thế của mẫu trắng 10 lần, ta có kết quả: X = 177,3 SD = 0,3091. Từ phương trình hồi qui Y = -59,588X + 60,591 ta tính được giới hạn phát hiện của phương pháp là 0,02   g F/ ml và giới hạn định lượng là 0,05   g F/ ml.

Độ đúng (Thực hiện trên mẫu B11X)

Bảng 1: Kết quả thực nghiệm khảo sát độ đúng theo tỉ lệ phục hồi

N

Tl% ñối vi lượng

có sn

E i O i

Fi

1

80

4,54,4498,67

2

4,54,4298,22

3

4,5 4,41 98,00

4

100

5

4,9398,60

5

5

4,9198,20

6

5

4,9098,00

7

120

5,55,4198,36

8

5,55,3998,00

9

5,55,3797,64X   98,19

Kết quả cho thấy phương pháp đạt yêu cầu về độ đúng. Như vậy, có thể áp dụng qui trình định lượng này để phân tích hàm lượng fluor trong kem đánh răng.

Kết quả định lượng hàm lượng fluor trong một số kem đánh răng hiện có trên thị trường Việt

Nam

Bảng 2: So sánh hàm lượng fluor trong kem đánh răng được khảo sát tại TTDVPTTN TPHCM và

BVRHMTƯ TPHCM

Tên mu Kem công ty Kem thtrường

TT

DVPTTN

BV

RHMTƯ

TT

DVPTTN

BV

RHMTƯ

A1-, B1- 1333 1276 1287 1260
A2-, B2- 957 980 1032 986
A3-, B3- 940 1077 1001 916
A4-, B4- 1225 855 1082 798
A5-, B5- 626 663 577 673
A6-, B6- 807 885 802 885
A7-, B7- 753 977 748 999
A8-, B8- 746 946 722 890
A9-, B9- 1373 1167 1281 1030
A10-, B10- 1216 1389 1173 1351
A11-, B11- 940 895 940 962
A12-, B12- 909 1135 839 982
A13-, B13- 1334 1378 1347 1272

B14-

868 822

B15-

831 1006

B16-

0

0

B17-

411 575

B18-

869 810

B19-

525 526

B20-

759 917

B21-

0

0

B22-

939 1175

B23-

750 819

So sánh kết quả đo hàm lượng fluor trong kem đánh răng ở TTDVPTTN và BVRHMTƯ TPHCM

Hàm lượng fluor trong kem đánh răng đo tại TTDVPTTN TPHCM và BVRHMTƯ TPHCM như nhau (t = 1,469 < t0,05 = 2,03). Điều này có thể khẳng định, phương pháp phân tích điện cực chọn lọc ion có thể áp dụng được ở các phòng kiểm nghiệm có qui mô vừa và nhỏ hay không có điều kiện trang bị những thiết bị hiện đại.

So sánh kết quả hàm lượng fluor trong mẫu kem đánh răng công ty và thị trường được khảo

sát tại BVRHMTƯ TPHCM

Hàm lượng fluor trong mẫu kem đánh răng lấy từ công ty sản xuất và mẫu kem đánh răng lấy từ thị trường khác nhau (t = 2,368 > t0,05  = 2,178). Sự khác biệt này có thể do nhiều nguyên nhân như: do chất lượng nguyên liệu, do điều kiện bảo quản không đảm bảo khi kem được đưa ra thị trường, do thời gian lưu trữ tại các siêu thị quá lâu…..Ngoài ra, có thể xảy ra do cỡ mẫu phân tích tại BVRHMTƯ TPHCM ít hơn. Đánh giá hàm lượng fluor trong kem đánh răng khảo sát so với hàm lượng chuẩn

Kem đánh răng trẻ em

Bảng 3. Tỷ lệ phần trăm kem đánh răng trẻ em đạt hàm lượng chuẩn trong thời điểm phân tích

Chun 250 – 450 ppm
Đạt (%) Không (%)
Kem công ty

0

100

Kem thị trường

0

100

Kết quả từ bảng 3 cho thấy các loại kem đánh răng trẻ em trong mẫu nghiên cứu đều

vượt hàm lượng chuẩn. Điều này có khả năng gây nhiễm fluor trên răng của trẻ, nhất là đối với những trẻ sống trong vùng có chương trình fluor hóa nước thì nguy cơ nhiễm fluor trên răng sẽ cao hơn.

Kem đánh răng người lớn

Kem sản xuất trong nước

Ñaït

Khoâng ñaït

50%

50%

Kem đánh răng công ty

Kem đánh răng thị trường

Ñaït

Khoâng ñaït

58,33%

41,67%

Các mẫu kem đánh răng lấy từ công ty có hàm lượng fluor thấp hơn chuẩn dưới 1000

ppm: 50%, khoảng hàm lượng fluor thấp hơn so với chuẩn dưới từ 20 – 145 ppm. Đối với các mẫu kem đánh răng lấy từ thị trường có hàm lượng fluor thấp hơn chuẩn dưới 1000 ppm:

58,33% và khoảng hàm lượng fluor thấp hơn so với chuẩn dưới từ 14 – 202 ppm. Không có

loại nào vượt chuẩn 1500 ppm.

Kem ngoại nhập ở thị trường tự do

Ñaït

Khoâng ñaït

11,11%

88,89%

Biểu đồ 5: Tỷ lệ phần trăm kem ở thị trường tự do đạt hàm lượng chuẩn trong thời điểm

Mẫu kem đánh răng ở thị trường tự do có hàm lượng fluor thấp hơn chuẩn dưới 1000 ppm: 88,89%, khoảng hàm lượng fluor thấp hơn so với chuẩn dưới từ 83 – 1000 ppm. Không có loại nào vượt chuẩn 1500 ppm.

So sánh hàm lượng fluor được khảo sát và hàm lượng fluor ghi trên bao bì kem đánh răng

Kem đánh răng sản xuất trong nước

Bảng 4: So sánh hàm lượng fluor được khảo sát và hàm lượng fluor ghi trên bao bì của kem đánh răng sản xuất ttrong nước

Tên mu Hàm lượng fluor (ppm)

Hàm lượng khác bit (ppm)

Bao bì

Kết qukho

t

A5-, B5- 660

635

25

A1-, B1- 1399

1289

110

A2-, B2- 1056

989

67

A3-, B3- 1056

983

73

A4-, B4- 1056

990

66

A6-, B6- 995

845

150

A7-, B7- 995

869

126

A8-, B8- 995

826

169

A9-, B9- 1450

1213

237

A10-, B10- 1450

1282

168

A11-, B11- 1000

934

66

A12-, B12- 1000

966

34

A13-, B13- 1450

1333

117

Mẫu phân tích có hàm lượng fluor khác biệt so với hàm lượng ghi trên bao bì từ 25 – 237 ppm. Trong đó, khác biệt so với hàm lượng ghi trên bao bì ở mức < 100 ppm là 46,15% và ≥

100 ppm là 53,85%.

Kem đánh răng ngoại nhập ở thị trường tự do

Bảng 5: So sánh hàm lượng fluor được khảo sát và hàm lượng fluor ghi trên bao bì của kem đánh răng trên thị trường tự do

Tên mum lượng fluor (ppm)

m lượng

khác bit

(ppm)

Bao bì

Kết qukho

t

B15-Không

919

 B17-

500

493

7

Tên mum lượng fluor (ppm)

m lượng

khác bit

(ppm)

Bao bìKết qukho sátB14-

1000

845

155

B16-Không

0

 B18-

1000

840

160

B20-

1000

838

162

B21-Không

0

 B22-

1003

1057

54

B23-

905

785

120

B19-Không

526

Hàm lượng fluor trong mẫu phân tích khác biệt so với hàm lượng ghi trên bao bì từ 7 –

162 ppm. Trong đó, khác biệt ở mức < 100 ppm là 20%, ≥ 100 ppm là 40%. Có 40% sản phẩm trên bao bì không ghi hàm lượng fluor.

Các thông số cơ bản trên bao bì kem đánh răng

Các sản phẩm kem đánh răng sản xuất trong nước, có ghi rõ loại muối fluor sử dụng, hàm lượng và hạn dùng. Riêng kem đánh răng ngoại nhập, có 40% không ghi rõ hàm lượng và loại muối fluor sử dụng, 20% không ghi rõ hạn dùng. Ngoài ra, có 23,08% kem sản xuất trong nước và 100% kem ngoại nhập không có dấu kiểm định chất lượng trên bao bì.

KẾT LUẬN

– Xây dựng và thẩm định được qui trình định lượng fluor trong kem đánh răng bằng phương pháp phân tích điện cực chọn lọc ion với những đặc điểm ưu việt: độ nhạy cao, chính xác, rẻ tiền, dễ sử dụng.

– Kết quả phân tích hàm lượng fluor trong kem đánh răng được so sánh ở 2 nơi phân tích là BVRHMTƯ  TPHCM và TTDVPTTN  TPHCM không khác nhau. Tuy nhiên, hàm lượng fluor trong các sản phẩm kem đánh răng được bán trên thị trường và sản phẩm sản xuất tại công ty có khác nhau.

– So sánh hàm lượng fluor trong kem đánh răng với hàm lượng chuẩn:

Kem đánh răng sản xuất trong nước

Kem đánh răng trẻ em

100% thương phẩm không đạt hàm lượng chuẩn.

Kem đánh răng người lớn

D Kem công ty

+ 50% thương phẩm đạt hàm lượng chuẩn.

+ 50% thương phẩm không đạt hàm lượng chuẩn

D Kem thị trường

+ 41,67% thương phẩm đạt hàm lượng chuẩn

+ 58,33% thương phẩm không đạt hàm lượng chuẩn.

Kem đánh răng ngoại nhập ở thị trường tự do

Kem đánh răng trẻ em

100% thương phẩm không đạt hàm lượng chuẩn.

Kem đánh răng người lớn

+ 11,11% thương phẩm đạt hàm lượng chuẩn.

+ 88,89% thương phẩm không đạt hàm lượng chuẩn.

So sánh hàm lượng fluor khảo sát và hàm lượng fluor ghi trên bao bì kem đánh răng:

Hàm lượng fluor khảo sát khác biệt so với hàm lượng trên bao bì như sau:

Kem đánh răng sản xuất trong nước

+ 46,15% thương phẩm khác biệt ở mức < 100 ppm.

+ 53,85% thương phẩm khác biệt ở mức ≥ 100 ppm.

Kem đánh răng ngoại nhập ở thị trường

+ 20% thương phẩm khác biệt ở mức < 100 ppm.

+ 40% thương phẩm khác biệt ở mức ≥ 100 ppm.

+ 40% thương phẩm trên bao bì không ghi hàm lượng fluor. Các thông số cơ bản trên bao bì kem đánh răng được ghi nhận như sau: Kem đánh răng sản xuất trong nước

100% kem đánh răng sản xuất trong nước ghi rõ loại muối fluor, hàm lượng và hạn

dùng trên bao bì. Cách trình bày hàm lượng fluor dưới dạng đơn vị là ppm hay phần trăm. Ngoài ra, có 23,08% thương phẩm không có dấu kiểm định chất lượng.

Kem đánh răng ngoại nhập ở thị trường

Có 40% thương phẩm không ghi rõ hàm lượng fluor, loại muối fluor và 20% thương phẩm không ghi rõ hạn dùng. Cách trình bày hàm lượng dưới đơn vị là ppm hay phần trăm. Đặc biệt, 100% thương phẩm không có dấu kiểm định chất lượng.

ĐỀ NGHỊ

D Nên áp dụng phương pháp phân tích điện cực chọn lọc ion để định lượng fluor trong kem đánh răng.

D Các công ty sản xuất kem đánh răng ở Việt Nam phải sản xuất các sản phẩm kem đánh răng với hàm lượng fluor đúng chuẩn theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới và Hiệp hội nha khoa Hoa kỳ: kem đánh răng trẻ em là 250 – 450 ppm, kem đánh răng người lớn là 1000 –

1500 ppm.

D Đối với các sản phẩm kem đánh răng ngoại nhập được bán tự do trên thị trường, cần quản lý chặt chẽ hơn về các tiêu chuẩn nhất là hàm lượng fluor trong kem.

D Để dễ dàng cho người tiêu dùng có thể lựa chọn sản phẩm kem đánh răng chất lượng, các công ty sản xuất kem đánh răng nên ghi rõ hàm lượng fluor dưới đơn vị là ppm.

D Hiện nay, tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng kem đánh răng dựa trên hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) đã lạc hậu, thiếu và không cụ thể. Điều này dẫn đến các công ty sản xuất kem đánh răng tự công bố tiêu chuẩn chất lượng cho cơ sở và chỉ cần đăng ký chất lượng với Tổng cục đo lường – Chất lượng là đủ. Cũng trên cơ sở này các sản phẩm kem đánh răng ngoại nhập trên thị trường cũng không đúng chuẩn. Từ thực trạng trên, chúng tôi kiến nghị Bộ y tế nên sớm ban hành tiêu chuẩn chất lượng về kem đánh răng có fluor để

làm căn cứ đánh giá chất lượng sản phẩm kem đánh răng sản xuất trong nước cũng như các

sản phẩm kem đánh răng ngoại nhập.

D Ở nước ta, để cho việc kiểm tra và giám sát chất lượng kem đánh răng được chặt chẽ và có hiệu quả, Bộ y tế nên giao cho một cơ quan quản lý Nhà nước nào có chức năng kiểm định để sản phẩm kem đánh răng đến tay người tiêu dùng được an toàn và chất lượng hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.       Axelsson P (2004). Preventive Materials, Methods and programs, Quintessence Publishing Co, Inc, 1st edition, pp. 263-362.

2.       Bộ y tế (2002). Điều tra sức khỏe răng miệng quốc gia, Nhà xuất bản Y học Hà Nội.

3.       Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương (Bộ Y Tế) (12/2005). Định hướng công tác ngành Răng Hàm Mặt các tỉnh thành phía

Nam từ 2005 – 2010 (Tài liệu lưu hành nội bộ).

4.       Burt BA (2000). Dentistry, dental practice and the community, W B, Saunders Company, 5th edition, pp. 315-334.

5.       Đặng Văn Giáp (2003). Phân tích thống kê trong kiểm nghiệm dược phẩm, Khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tr.

36-44.

6.       Đặng Văn Giáp (2003). Trắc nghiệm giả thuyết trong nghiên cứu khoa học, Khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tr.

16-26, 55-61.

7.       Đặng Văn Hòa, Võ Thị Bạch Huệ, Nguyễn Thị Hồng Hương, Vĩnh Định (2003). Giáo trình kiểm nghiệm thuốc, Bộ môn phân tích – kiểm nghiệm, Khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

8.       Embery G, Rolla G (1992). Clinical and biological aspects of dentifrices, Oxford University Press, pp. 1-60.

9.       Hobdell M, Petersen PE, Clarkson J (2003). “Global goals for oral health 2020”, International Dental Journal, No 53, pp. 285-288.

10.      Khanh ND, Durward C (1997). Fluoride toothpastes in Vietnam.

11.      Murray J.J, Jenkins G.N (2000). Fluorides in dental caries prevention, Wright, 3rd edition, pp. 127-161.

12.      Ngô Đồng Khanh (2004). “Phương pháp lấy mẫu và phân tích nồng độ fluor”, Giáo trình nha khoa công cộng, Bộ môn nha khoa công cộng, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược, TP. Hồ Chí Minh.

13.      Ngô Đồng Khanh, Vũ Thị Kiều Diễm (2000). “Tình hình sức khỏe răng miệng ở các tỉnh thành phía Nam”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học, Viện Răng Hàm Mặt TP. Hồ Chí Minh, tr. 17-20.

14.      Pertersen PE, Lennon MA (2004). “Effective use of fluoride for prevention of dental caries in 21st century”, Community Dent

Oral Epidemiol Journal, No 32, pp. 319-321.

15.      Songpaisan Y (2003). Research methodology in oral health science.

16.      Tổ Chức Y Tế Thế Giới (2003). Phương pháp nghiên cứu sức khỏe, Hướng dẫn đào tạo các phương pháp nghiên cứu, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

17.      Truong TV (2003). Vietnam school oral health promotion program, Country report at the 2nd Asian conference of oral health promotion for school children, pp. 133-137.

18.      Võ Thị Bạch Huệ (2005). Phương pháp điện hóa, Tài liệu giảng dạy lớp cao học, Bộ môn phân tích – kiểm nghiệm, Khoa Dược, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

19.      Võ Thế Quang (1989). Fluor và sức khỏe răng miệng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 31-48.

20.      Yan BJ, Adulyanon S (1998). Oral health in South East Asia, A regional perspective, Scientific report at the third Congress of the Asian Academy of preventive dentistry.

21.      World Health Organization (2003). Fluoride and oral health, Geneva.

THỨC ĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ

THỨC ĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ

A/- ĐƯỜNG là một loại thực phẩm của bệnh ung thư. Không tiêu thụ đường là cắt bỏ một trong những nguồn quan trọng nhất của các tế bào ung thư. Có sản phẩm thay thế đường như saccharin, nhưng chúng được làm từ Aspartame và rất có hại. Tốt hơn nên thay thế đường bằng mật ong Manuka hay mật đường nhưng với số lượng nhỏ. Muối có chứa một hóa chất phụ gia để xuất hiện màu trắng. Một lựa chọn tốt hơn cho muối trắng là muối biển hoặc các loại muối thực vật.

B/- SỮA làm cho cơ thể sản xuất chất nhầy, đặc biệt là trong đường ruột. Tế bào ung thư ăn chất nhầy. Loại bỏ sữa và thay thế bằng sữa đậu nành, các tế bào ung thư không có gì để ăn, vì vậy nó sẽ chết.

C/- Các tế bào ung thư trưởng thành trong môi trường axit. Một chế độ ăn uống là THỊT ĐỎ có tính axit, tốt nhất là ăn cá, và một chút thịt gà thay vì thịt bò hay thịt heo. Hơn nữa, thịt chứa kháng sinh, hormon và ký sinh trùng, rất có hại, đặc biệt đối với những người mắc bệnh ung thư. Protein thịt khó tiêu hóa và đòi hỏi nhiều enzym. Thịt không tiêu hóa ở lại và hư hỏng trong cơ thể dẫn tới tạo ra các độc tố nhiều hơn.

GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

a) Một chế độ ăn uống gồm 80% rau quả tươi và nước ép, ngũ cốc, hạt, các loại hạt quả, quả hạnh nhân và một ít loại trái cây đặt cơ thể trong môi trường kiềm. Chúng ta chỉ nên tiêu thụ 20% thực phẩm nấu chín, bao gồm cả đậu. Nước ép rau tươi cung cấp cho cơ thể co-enzyme có thể dễ dàng hấp thu và ngấm vào các tế bào 15 phút sau khi được tiêu thụ để nuôi dưỡng và giúp định hình các tế bào khỏe mạnh. Để có được các enzyme sống, giúp xây dựng các tế bào khỏe mạnh, chúng ta phải cố gắng uống nước ép rau (tất cả, bao gồm cỏ linh thảo) và ăn nhiều rau quả tươi 2 hoặc 3 lần mỗi ngày.

b) Không nên dùng CÀ PHÊ, TRÀSÔ CÔ LA có chứa nhiều caffeine. TRÀ XANH là một lựa chọn tốt hơn vì có chất chống ung thư. Tốt nhất là uống nước tinh khiết hoặc nước lọc để tránh các chất độc và kim loại nặng trong nước thường. Không uống nước cất vì nước này có chứa axit.

c) Các thành các tế bào ung thư được bao phủ bởi một loại protein rất cứng. Khi không ăn thịt, những thành tế bào phóng thích nhiều enzim hơn, tấn công các pro tê in của các tế bào ung thư và cho phép hệ thống miễn dịch tiêu diệt các tế bào ung thư.

d) Một số chất bổ sung giúp xây dựng lại hệ thống miễn dịch: Floressence, Essiac, chất chống oxy hóa, vitamin, khoáng chất, EPA, dầu cá … giúp các tế bào để chiến đấu và tiêu diệt các tế bào ung thư. Các chất bổ sung khác như vitamin E được biết đến bởi vì nó gây ra apoptose, cách bình thường của cơ thể để loại bỏ các tế bào vô dụng hoặc bị lỗi.

e) Ung thư là một căn bệnh của cơ thể, tâm trí và tinh thần. Một thái độ hoạt động và tích cực hơn sẽ giúp các bệnh nhân ung thư chiến đấu và sống còn. “Giận dữ và không hiểu biết, không tha thứ sẽ đặt cơ thể vào tình trạng căng thẳng và một môi trường axit“.
Học để có tâm hồn khả ái và yêu thường với một thái độ sống tích cực là rất có lợi cho sức khỏe. Học thư giãn và tận hưởng cuộc sống.

f) Các tế bào ung thư không thể sống trong một môi trường dưỡng khí (oxygénée). Luyện tập thể dục hàng ngày, hít thở sâu giúp lấy thêm nhiều oxy vào các tế bào. Liệu pháp oxy là một yếu tố giúp tiêu diệt các tế bào ung thư.

1. Không để hộp nhựa trong microwave.
2. Không để chai nước trong tủ lạnh.
3. Không để tấm nhựa trong microwave.

g) Các hoá chất như dioxin gây ung thư, đặc biệt là ung thư vú. Dioxin rất có hại, đặc biệt là đối với các tế bào cơ thể.
Đừng để trong tủ lạnh chai nước nhựa bởi vì nhựa sẽ “đổ mồ hôi” dioxin và làm nhiễm độc nước uống.

Gần đây, Tiến sĩ Edward Fujimoto, Giám đốc chương trình Wellness ở bệnh viện Castle, xuất hiện trong một chương trình truyền hình giải thích sự nguy hiểm của dioxin.
Ông nói rằng chúng ta không nên đặt hộp nhựa trong microwave, đặc biệt là các loại thực phẩm có chứa chất béo. Ông nói rằng do sự kết hợp của chất béo và nhiệt lượng cao, nhựa sẽ truyền dioxin vào thực phẩm và do đó vào cơ thể chúng ta. Thay vào đó, bạn có thể sử dụng thủy tinh như Pyrex hoặc gốm sứ để đun nấu.

(Nguồn: Cơm Thiu)

Bài nói chuyện của bác sĩ William Li về một phương thức tiếp cận mang tính đột phá trong y học để chữa trị nhiều bệnh hiểm nghèo, nhất là các loại ung thư và béo phì, dựa trên những hiểu biết mới của bộ môn “angiogenesis” về cơ chế tạo mạch máu. Những hiểu biết này còn giúp tất cả chúng ta có thói quen ăn uống lành mạnh hơn để có đời sống khỏe mạnh và tuổi thọ cao hơn.

http://www.ted.com/talks/william_li.html

http://zerokun.com/?p=1918 (tiếng Việt)