Category Archives: People Thang Long
Tập thơ CHIẾC Ô ĐI LẺ (Thơ Hạ Nguyên)
TỰA
Tập thơ
CHIẾC Ô ĐI LẺ (Thơ Hạ Nguyên)
Phạm Tấn Hầu Từ ngọn nguồn là quê xứ của tuổi thơ, thi ca tựa như một dòng thủy tịch mang giấc mơ của người làm cho đến với thế giới, với mong ước được chia sẻ. Thơ Hạ Nguyên (Hồ Đăng Thanh Ngọc) khởi từ nguồn đó.Nếu tập thơ đầu tay “Đi qua cánh rừng” mang nhiều mơ ước không thành của một chú bé trong câu chuyện được kể lại, không có nàng tiên nào, đơn độc trong giá rét với con sói hung dữ trước mặt, thì tập thơ này “Chiếc ô đi lẻ” là tâm trạnglạc lõng trước thay đổi diện mạo của dòng thời gian, trước bao thần thoại biến mất, trước cuộc đời trần trụi không gốc tích, không quê quán…Đi bên cạnh các trào lưu được cho là thời thượng, đương đại, thế giới của Hồ Đăng Thanh Ngọc nhuốm màu cổ điển, có vẻ lặng lẽ hơn, trầm tư hơn. Có lẽ anh đang gánh nặng truyền thống mà anh tin thuộc về ý thức của mình. Nhưng đọc thơ anh, người ta thấy anh cũng giống như cậu bé trong chuyện cổ kia, nhỏ nhoi và yếu đuối, trong khi con sói ngày một hiện đại hơn, đội nhiều lốt hơn. Nó là sản phẩm kép của cơ chế thị trường và chủ nghĩa thực dụng. Và như thế, gánh nặng đang mang theo đó bao gồm cả đống đổ nát của những ước mơ, khát vọng không thành, những quá khứ không được trân trọng gìn giữ…
Có vẻ như đây là không chỉ cảm xúc được trình bày mà đúng hơn, là dáng vẻ của một chiếc ô đi lẻ như trong bài thơ “Chân mây” mô tả:
Chân mây
Gần như không còn
một doi đất cho cú đáp chân của
loài chim di cư Không còn
nữa cọng rêu cuối đông khi đường chân
trời cứ dài ra mãi… Dù
vậy cũng nên lên chiếc xuồng sắp chìm
Để trở lại con sông neo
đậu mảnh hồn làng
Để có thể liệm
mình vào trong lũy tre Nghe
dế giun hát trong cỏ Bài ca vĩnh
biệt…
Về những ngày đã qua
Như
một kiếp người buồn
Kéo dài những
muộn
phiền hơn niềm vui
Vì những
lẽ không đáng có
Như chong chóng
quay theo dáng xoay đồng tiền
Giành giựt nhau những cô gái đẹp hay
sức mạnh
cơ bắp của chàng
trai
Về những thủ đoạn tươm vấy máu
để cướp về cho mình những
khoái cảm vật chất
dửng dưng và vui
mừng trước những thua thiệt
của
người khác
như những chiến công đắc ý
trong cõi sinh tồn
cần phải
có…
Cuộc đời này mệt mỏi quá
Những
nỗi mệt nhoài xâm thực các
thời khắc bãi hoải
Những thân phận nhàu
nát xô vào nhau những
số
phận buồn
Vô nghĩa như tài sản là
những
cục sắt rỉ mang theo
Làm rỉ sét cả
trái tim
Và máu…
Đang chảy khắp nơi trong các
khe máy đếm tiền
Buồn nhiều như cỏ
Đầy như gió
Bao la như
chân mây
Uh
Không có chỗ nào để đáp cả
Thôi thì bay vào hư vô
May ra chỗ đó không có gì để
mình phải ngẫm ngợi
May ra
còn trong veo…
Người ta thường nói rằng không Thượng đế thì không có sự cứu chuộc. Đối với người làm thơ, Thượng đế chính là vị thần thi ca. Nhưng không có đức tin thì chẳng có thần thánh, và cũng chẳng có sự cứu chuộc nào. Trong thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc, đức tin ấy chính là nước thánh của tâm hồn. Có thể đấy không phải là điều mới mẻ được nhắc tới. Tuy vậy, nếu được nhúng vào thứ nước ấy, ắt thế giới nhìn thấy sẽ khác đi nhiều…
Thơ ca không cải tạo thế giới, nhưng đọc những dòng thơ như vậy trong tập thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc vừa gửi tới hôm nay, chúng ta sẽ cảm nhận còn biết bao nhiều điều cần được khơi dậy, chuyển hóa cho cái thế giới lắm tai ương và bất trắc
này…
Huế, tháng 9.2011
Tướng Giáp: Ngọn núi lửa phủ tuyết
Tướng Giáp: Ngọn núi lửa phủ tuyết
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c69/n12829/Tuong-Giap-Ngon-nui-lua-phu-tuyet.html
Nhà báo từng đoạt giải Pulitzer kiêm sử gia nổi tiếng Stanley Karnow là tác giả cuốn sách Vietnam: A history, được coi là một trong những bộ sử toàn diện nhất về cuộc chiến tại VN và từng được dựng lại thành thiên lịch sử truyền hình cùng tên trên PBS (đoạt được sáu giải Emmy).
Năm 1990, ông Karnow trở lại VN để viết bài về tướng Giáp cho tờ tạp chí của New York Times. Tuổi Trẻ trích đăng lại bài viết về cuộc gặp này của ông.
Chúng tôi gặp ở dinh thự của cựu toàn quyền Pháp tại Hà Nội. Tòa nhà bài trí công phu với khu vườn rộng, cây cối um tùm và giàn hoa giấy, nơi các quan chức VN vẫn thường tiếp khách. Người đàn ông thấp với làn da căng, tóc trắng, đôi mắt nhỏ và tác phong nhanh nhẹn. Ông mặc bộ quân phục đơn giản màu xanh lá cây, bốn ngôi sao trên cầu vai là dấu hiệu duy nhất về cấp bậc. Nụ cười rạng rỡ, ông nắm tay tôi và, rất ngạc nhiên, chạm má với tôi theo cách của người Pháp truyền thống.
Đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tư lệnh quân đội của VN, người sánh vai cùng các danh tướng như Grant, Lee, Rommel và MacArthur trong ngôi đền của các nhà lãnh đạo quân sự.
Một nhà chiến lược táo bạo, nhà logic lão luyện và nhà tổ chức không mệt mỏi, tướng Giáp đã chiến đấu hơn 30 năm trời, xây dựng nhóm du kích ngày nào trở thành một trong những quân đội hiệu quả nhất thế giới. Vượt mọi dự đoán, ông đập tan quân đội Pháp, nhưng chiến tích huy hoàng nhất của ông phải là đánh tan quân đội Mỹ với lực lượng vượt trội hơn rất nhiều lần.
“Quyết định nhất là con người”
Lính của tướng Giáp thực tế chứng tỏ sự gan dạ phi thường trong chiến tranh, làm bất ngờ các chiến lược gia Mỹ từng nghĩ chỉ sức mạnh đơn thuần [của Mỹ] có thể hạ tinh thần của lính Việt. Tướng Westmoreland thường lôi dẫn chứng về số lính hi sinh để tuyên bố quân cộng sản chuẩn bị thất bại. Sau chiến tranh, Westmoreland vẫn không hiểu vì sao mình thất bại. |
Người Pháp từng gọi ông Giáp là “ngọn núi lửa phủ tuyết” – bề mặt tuyết bên ngoài che giấu tính cách quyết liệt bên trong. Giờ khi đã gần tới tuổi 80, tính cách ông dường như hiền hòa hơn cùng với tuổi tác. Nhưng ông vẫn thể hiện sức mạnh trí tuệ và ý chí quyết liệt từng giúp ông chiến thắng – và biến ông thành huyền thoại.
Một ngày sau cuộc gặp đầu, tôi được tới tư dinh của tướng Giáp – một biệt thự kiểu Pháp… Ông nói thứ tiếng Pháp hoàn hảo có pha chút giọng Việt. Khi nói chuyện nghiêm túc, ông bắt đầu bùng nổ với ngôn từ. Có trí nhớ siêu phàm, ông nhớ tên các đồng đội cũ hay chi tiết các sự kiện đã diễn ra cách đó nhiều thập kỷ.
Lính của tướng Giáp và những người dân ủng hộ họ chiến đấu trên chính mảnh đất của mình. Họ tin rằng sự hi sinh của mình sẽ khiến kẻ thù nao núng và cùng với thời gian giúp họ lấy lại được VN. Ông dùng chiến lược này với người Pháp và tự tin rằng nó thành công trong chiến đấu với người Mỹ.
“Chúng tôi không đủ mạnh để đuổi cả nửa triệu lính Mỹ, đó không phải mục tiêu của chúng tôi – ông nói – Mục tiêu của chúng tôi là đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Chính phủ Mỹ. Westmoreland đã sai khi nghĩ hỏa lực mạnh hơn của ông ta sẽ nghiền nát được chúng tôi. Nếu đọ hỏa lực, chúng tôi sẽ thất bại chỉ sau hai tiếng. Chúng tôi phát động chiến tranh nhân dân. Vũ khí tối tân của người Mỹ, thiết bị điện tử và tất cả thứ khác cuối cùng chẳng có nghĩa lý gì. Trong chiến tranh có hai yếu tố – con người và vũ khí. Mấu chốt nhất, quyết định nhất chính là yếu tố con người. Con người! Con người!”.
Ông định chiến đấu đến bao lâu? “Thêm 20 năm, thậm chí cả 100 năm, miễn là chiến thắng với bất cứ giá nào” – ông Giáp đáp lại ngay.
Thời trai trẻ
Ông Giáp khẳng định người cộng sản sẽ trả bất cứ cái giá gì cho chiến thắng, vì họ thiết tha với một mục tiêu là di sản dân tộc của người Việt – di sản đã nuôi dưỡng tinh thần thượng võ quyết liệt của đất nước. “Suốt lịch sử – ông kể – tư tưởng thấm đẫm nhất trong suy nghĩ của nhân dân tôi luôn chính là lòng yêu nước”. Tôi hiểu ông nói gì. Là chiến trường suốt 4.000 năm [lịch sử ], VN có vô số câu chuyện thật và huyền thoại về các chiến binh chống lại kẻ thù xâm lược. Các cuộc chiến này đã trui rèn ý thức dân tộc sống động trong thơ văn và nghệ thuật dân gian, trong những ngôi đền chùa – nơi trẻ em vẫn dâng hương những anh hùng huyền thoại.
Đến đầu thế kỷ 20, nước Pháp đã kiểm soát VN, nhưng sự thống trị này luôn bị các cuộc nổi dậy thách thức bất chấp sự đàn áp đẫm máu. Tướng Giáp được nuôi dưỡng trong môi trường này. Là con trai lớn trong gia đình có năm người con, ông sinh năm 1911 ở làng An Xá, Quảng Bình, ngay phía trên vĩ tuyến 17 mà sẽ chia cắt đất nước này 43 năm sau.
Ở lớp vỡ lòng của làng, ông Giáp bắt đầu học tiếng Pháp, nhưng ở nhà thì cha mẹ ông chỉ nói tiếng Việt. Ông Giáp miêu tả “họ gieo hạt giống yêu nước trong tôi”. Cha ông, một nông dân có học hành, biểu thị lòng yêu nước bằng cách dạy ông chữ Nôm. Nhờ đó, ông Giáp biết đọc cuốn sách đầu tiên, cuốn sách về lịch sử VN cho trẻ em: “Tôi phát hiện về cha ông mình, về các liệt sĩ và nghĩa vụ của chúng tôi phải gột bỏ những tủi nhục của quá khứ”.
Năm 1924, ông Giáp đến cố đô Huế học Trường Quốc học danh giá. Khi đó mới 13 tuổi, ông đã bắt đầu học chính trị. Học sinh thường gặp bí mật để thảo luận về các bài viết chống thực dân, đặc biệt là của một người ở nước ngoài mang tên Nguyễn Ái Quốc – người là Hồ Chí Minh sau này. Ông Giáp đặc biệt ảnh hưởng bởi Phan Bội Châu, một nhà dân tộc chủ nghĩa từ sớm và đang bị Pháp quản thúc tại nhà. Ông thường nhắc lời hiệu triệu của ông Phan Bội Châu: “Dậy! Dậy! Dậy! Bên án một tiếng gà vừa gáy… Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn”.
THANH TUẤN dịch – TTO
Thế nào là một trí thức chân chính
Thế nào là một trí thức chân chính
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức chân chính, vì chính kiến riêng mà phải chịu một cuộc sống đau khổ hơn ba mươi năm. Cuối đời, năm 1989, ông được học trò và người thân mời trở lại thăm nước Pháp vào đúng lúc Đông Âu đang xảy ra biến cố. Phóng viên Báo Le Monde đã phỏng vấn ông. Theo tâm lý thường tình, người ta nghĩ ông sẽ thực hiện “un coup pied de l’âne” (cú đá của con lừa thừa cơ người khác đang gặp khó khăn). Nhưng với nhân cách của một trí thức chân chính không cho phép ông hành xử như vậy.
- PV: Ngài thấy chủ nghĩa cộng sản bây giờ thế nào?
- GS Nguyễn Mạnh Tường (NMT): Trước hết các ông đừng lẫn lộn chủ nghĩa cộng sản, mà nhiều trí thức Pháp đã coi là hy vọng cuối cùng của loài người, với những người đã thực hiện nó.
- PV: Vậy ngài thấy các lãnh tụ cộng sản thế nào?
- GS NMT: Cũng như vậy, các ông chớ xếp chung các lãnh tụ cộng sản vào một gói. Làm sao có thể đặt ngang hàng Xêauxetxcu với Hồ Chí Minh? Các ông đều biết Cụ Hồ đến khi chết vẫn chỉ có hai bộ quần áo ka ki đã sờn và một đôi dép lốp cao su vẹt gót.
- PV: Liệu Việt Nam có như Đông Âu không?
- GS NMT: Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có những sai lầm, nhưng không ai quên công lớn của Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, thống nhất, giải phóng dân tộc.
cho sự nghiệp Từ bi – Trí tuệ – và Hòa bình
Harvard vinh danh Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
cho sự nghiệp Từ bi – Trí tuệ – và Hòa bình
Lê Nguyên tổng hợp***
Sự nghiệp từ bi, trí tuệ và hòa bình
Đi học “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” giữa lòng nước Mỹ
Thứ Hai, 16/09/2013 10:53
Riêng Tư: UBS l ĐTX
Đặng Tính (13): Hồi ức về một thời 'vào hang bắt cọp'
Hồi ức về một thời ‘vào hang bắt cọp’
Chúng tôi vừa gặp lại Đại tá Nguyễn Văn Hội, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 238, Sư đoàn 363 (Quân chủng PK-KQ), người đã trực tiếp chỉ huy đơn vị hành quân từ miền Bắc vào chiến trường Vĩnh Linh, tìm cách tiêu diệt “siêu pháo đài bay” B-52 của Mỹ. Hồi ức về một thời “vào hang bắt cọp” được ông tái hiện lại khá rõ nét.
“Vào hang bắt cọp”
Tháng 4/1965, Trung đoàn tên lửa phòng không 238 được thành lập do Đại tá Nguyễn Văn Hội làm Trung đoàn trưởng. Một năm sau, tháng 4/1966, nhận lệnh của cấp trên, bác Hội dẫn Trung đoàn của mình vượt mưa bom bão đạn vào phối hợp tác chiến với Quân khu 4 tìm cách đánh B-52. Sở chỉ huy Trung đoàn 238 lúc này đang đóng ở Nghi Lộc (Nghệ An) được lệnh “vào hang bắt cọp”, đưa tên lửa vượt sông Lam vào Vĩnh Linh (Quảng Trị) tiêu diệt B-52.
Đem tên lửa vào Vĩnh Linh là một điều không hề đơn giản. Việc một chiếc ôtô bình thường đi đến cầu Hiền Lương khi địch không tiếc bom đạn vãi xuống đã khó, huống chi việc đưa cả một đơn vị tên lửa với hàng trăm chiếc xe các loại vào đến Vĩnh Linh an toàn. Các chuyên gia Liên Xô đều lắc đầu ngao ngán: “Đường xấu lắm, tên lửa chúng tôi sản xuất ra không thể đi đường như thế được”- Đại tá Nguyễn Văn Hội nhớ lại.
Bàn cách đánh B-52 trên chiến trường Quảng Trị
Thắng lợi bước đầu
Vận chuyển được cả tiểu đoàn tên lửa vào đến Vĩnh Linh đã khó, bảo đảm an toàn được các trang thiết bị và lực lượng cũng không phải là điều dễ dàng. Cùng với sự trợ giúp đắc lực của bộ đội và dân quân địa phương, bộ đội tên lửa đã ngày đêm đào hầm đưa khí tài, tên lửa xuống để bảo quản, tránh bom đạn Mỹ bắn phá. Đại tá Nguyễn Văn Hội kể:
– Đồng chí Chính ủy Quân chủng PK-KQ Đặng Tính lúc đó có nói với chúng tôi như thế này: “Vận chuyển cả một tiểu đoàn tên lửa vào Vĩnh Linh an toàn đã là một huyền thoại và có thể phong anh hùng lần thứ nhất. Đến Vĩnh Linh, đem hết được số tên lửa ấy xuống hầm an toàn đã có thể phong anh hùng lần thứ hai. Bảo đảm, xác định thông số kỹ thuật chính xác và tập trung được lực lượng khi có B-52 đã có thể phong anh hùng lần thứ ba. Khi B-52 đến, bắn hạ được nữa là các anh đã bốn lần anh hùng”.
Cái giá không nhỏ
Khi triển khai lực lượng, bộ đội tên lửa đã phải trả một cái giá không nhỏ để mang về chiến thắng. Phải mất một thời gian dài mới tìm ra cách để đối phó với thủ đoạn gây nhiễu điện tử của địch. Hàng trăm quả đạn bắn đi lại rơi xuống, khiến ta bị thiệt hại nặng nề.
Bên cạnh đó, địch liên tục bắn thăm dò và đe dọa lực lượng của ta. Cả tiểu đoàn 83 đã bị bom tọa độ Mỹ phá hỏng, không quân Mỹ đã dùng pháo 20 ly bắn thăm dò và trúng vào bệ tên lửa. Phát hiện mục tiêu của ta, chúng vãi bom đạn, đánh liên tục 3 ngày đêm. Tiếp đó, chúng lại sử dụng pháo mặt đất ở bờ Nam – Hiền Lương bắn sang và pháo ở ngoài biển bắn vào. Tiểu đoàn 81 cũng bị Sơ-rai (tên lửa không đối đất) của địch bắn hỏng.
Hai Tiểu đoàn 82 và Tiểu đoàn 84 cũng bị thiệt hại nặng nề. Trong ba ngày đêm ác liệt ấy, hơn 500 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 238 đã ngã xuống; nhiều bộ khí tài đã bị phá hủy, trong khi ta vẫn chưa hạ được B-52. Chỉ huy Trung đoàn 238 đã quyết định sáp nhập hai tiểu đoàn bị tổn thất nhẹ hơn, lấy tên là Tiểu đoàn 84 để đối phó với B-52 của địch.
Chiến thắng xoa dịu nỗi đau
Cơ hội đã đến khi Mỹ chủ quan cho rằng chúng đã phá hỏng toàn bộ tên lửa của ta. Lợi dụng điều đó, bộ binh ta trực tiếp tấn công quân Mỹ ra sát bờ Nam sông Bến Hải, buộc địch phải điều B-52 ra yểm trợ hỏa lực cho bộ binh Mỹ. “Với sự chuẩn bị chu đáo và tinh thần quyết tâm lớn, Tiểu đoàn 84 đã hạ gục 2 máy bay B-52 của Mỹ tại trận địa Nông trường Quyết Thắng, Vĩnh Linh vào lúc 19 giờ ngày 17/9/1967. Tất cả chúng tôi đều vỡ òa trong niềm vui sướng”- Đại tá Nguyễn Văn Hội bồi hồi nhớ lại.
Tin vui như cánh chim nhanh chóng bay đi. Bác Hồ đã gửi thư khen và quyết định tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì cho Tiểu đoàn 84.
Sau bao mất mát, hy sinh, bộ đội tên lửa phòng không đã lần đầu tiên hạ gục “siêu pháo đài bay” B-52 của Mỹ. Chiến thắng ấy là điều kỳ diệu, xoa dịu nỗi đau mất mát. Cái giá phải trả không hề nhỏ, nhưng chiến thắng này là sự mở màn ngoạn mục cho hàng loạt những chiến thắng tiếp đó, mà điển hình nhất là kỳ tích “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”.
Nguyễn Hương Bưởi
Đặng Tính (12): trong Hồi ức của Bà Hoàng Mu-ních
Phần thứ ba trích Ủy ban Đối ngoại những chặng đường lịch sử
HỒI ỨC CỦA MỘT SỐ THÀNH VIÊN UỶ BAN ĐỐI NGOẠI
CỦA QUỐC HỘI VÀ CÁN BỘ VỤ ĐỐI NGOẠI
ĐÊM QUỐC YẾN
Vũ Mão
Chủ nhiệm UBĐN Quốc hội (khoá XI)
Đoàn đại biểu cấp cao của Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An dẫn đầu thăm Vương quốc Cam-pu-chia trong những ngày cuối tháng 12/2002. Quốc Vương Xi-ha-núc đã tiếp Đoàn rất trân trọng. Đặc biệt Quốc Vương đã tổ chức một đêm Quốc yến chiêu đãi Đoàn. Câu chuyện rất gần gũi, Quốc Vương phấn khởi đánh giá những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong thời gian qua. Đặc biệt, Quốc Vương rất xúc động khi ôn lại những kỷ niệm xưa; cảm phục tấm gương cao cả của đồng chí Đặng Tính hy sinh thân mình để bảo vệ Quốc Vương trên tuyến đường Trường Sơn những ngày chống Mỹ cứu nước trong chuyến đưa Quốc Vương trở về thăm Cam-pu-chia; ơn nghĩa này không bao giờ có thể quên được. Bà Hoàng Mu-ních cho biết Bà đã ghi lại ba cuốn hồi ký về chuyến đi lịch sử đó. Hai vị tha thiết muốn tìm lại những người thân của đồng chí Đặng Tính để kể lại cho họ câu chuyện cảm động ngày xưa và được đền đáp phần nào công ơn to lớn với gia quyến của đồng chí Đặng Tính.
Trong đêm Quốc yến còn có một kỷ niệm khó quên đối với tôi là, Quốc Vương đã say sưa nghe bài hát “Huy hoàng Angkor” của tôi đến ba lần. Bài hát do dàn nhạc Hoàng gia chơi và Quốc Vương yêu cầu chính tôi thể hiện bài hát ấy.
Tôi đã kịp thời ghi lại một vài cảm xúc của đêm hôm ấy trong bài thơ:
Hạnh phúc ngập tràn vui đắm say
Hoàng cung Quốc yến ấm vòng tay
Tri ân tri kỹ đằm tâm huyết
Nguyện ước bang giao cao phúc dày
Tình nghĩa láng giềng thêm gắn bó
Người con Đất Việt chí kiên trung
Tấm gương Đặng Tính Trường Sơn ấy
Bảo vệ Quốc Vương nghĩ thuỷ chung
Cao thẳm bầu trời lấp lánh sao
Nụ cười nhân hậu nét thanh tao
Bồi hồi xúc động tâm can thấu
Ký ức xót thương giọt máu đào
Xa vãng một thời đời giông bão
Đồng quê rực nắng mát xanh trong
Biển Hồ bát ngát thơm hương gió
Tươi đỏ phù sa thắm Cửu Long.
Hà Nội, ngày 1/5/2007
Đặng Tính (11): đi ra mặt trận
THƠ CỦA NGUYÊN LIỆT SĨ ĐẠI TÁ ĐẶNG TÍNH – CHÍNH ỦY BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN TẶNG CÁC CHIẾN SĨ LÁI XE
Vào đầu năm 1973, để chuẩn bị cho thời cơ mới, Bộ Tư lệnh Trường Sơn phân công cán bộ nắm tình hình toàn tuyến để xây dựng kế hoạch, báo cáo với Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đi hướng Đông, Chính ủy Đặng Tính đi về hướng Tây. Trên đường đi, do xe bị trúng mìn của địch, Chính ủy Đặng Tính đã hy sinh. Tuy nhiên, trong chuyến đi ấy, Chính ủy thì đã kịp phổ biến chiến lược quân sự để đối phó với tình hình lúc đó… Tuy thời gian sống và chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn ngắn, nhưng Chính ủy Đặng Tính đã có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng tuyến đường và thắng lợi của Bộ đội Trường Sơn trong giai đoạn chuyển biến rất quan trọng của chiến tranh.Không chỉ là một chỉ huy giỏi, Chính ủy Đặng Tính còn là một người anh, người bạn thân thiết của bộ đội Trường Sơn. Những lúc rảnh rỗi, ông cắt tóc, lợp lán cho chiến sỹ, nói chuyện thời sự và đọc thơ cho bộ đội nghe, tìm hiểm tâm tư nguyện vọng của cán bộ chiến sỹ… Vào 559, chỉ trong thời gian ngắn, ông đã đi hầu khắp các đơn vị, binh chủng, đặc biệt là các đơn vị ở gần chiến trường, đơn vị trọng điểm. Ông đến tận nơi các chiến sỹ đang làm nhiệm vụ, hỏi thăm sức khỏe, đời sống, tình hình công việc và gia đình… Trong lòng những bộ đội Trường Sơn hôm nay vẫn còn ghi dấu biết bao kỷ niệm về Chính ủy Đặng Tính trong cuộc sống và chiến đấu.
Sống trong bom đạn và phải đối mặt với gian khổ, hy sinh, nhưng Chính ủy Đặng Tính vẫn biến những cảm xúc của mình thành thơ để tặng chiến sỹ, tặng bạn bè và gửi vợ con nơi hậu phương. Mỗi hiện tượng chiến đấu, một nét vui buồn trong đời sống chiến sỹ Trường Sơn như một chiến sỹ thông tin dũng cảm, cô gái nuôi quân chăm chỉ, đảm đang, đến cả một cây cầu mới bắc qua sông Gianh… đều là tứ cho một bài thơ đẹp của ông. Thiếu tướng Nguyễn An nhớ lại: “Chính ủy Đặng Tính có tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ, nhưng anh khiêm tốn chỉ nhận mình là “lều thơ”, “lán thơ”, chứ chưa được gọi là nhà”.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, ngoài những chiến công, Chính ủy Đặng Tính còn để lại gần 100 bài thơ viết về cuộc sống và chiến đấu của bộ đội Trường Sơn…
Là một chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, gương mẫu, yêu thương đồng đội, đồng thời là người “say thơ”, hình ảnh Chính ủy Đặng Tính với nụ cười rạng rỡ vẫn còn in đậm trong lòng các cán bộ và chiến sỹ Trường Sơn hôm nay.